Dị ứng phấn hoa (tên tiếng Anh là Hay fever) hay còn được gọi là viêm mũi dị ứng (tên tiếng Anh là allergic rhinitis) gây ra các dấu hiệu và triệu chứng giống như cảm lạnh, như sổ mũi, ngứa mắt, nghẹt mũi, hắt hơi và tăng áp lực xoang. Nhưng không giống như cảm lạnh, viêm mũi dị ứng không phải do virus gây ra mà do phản ứng dị ứng với các chất gây dị ứng ngoài trời hoặc trong nhà, chẳng hạn như phấn hoa, mạt bụi hoặc nước bọt của mèo, chó và các động vật khác có lông.
Bên cạnh việc làm cho bạn khổ sở về bệnh thì viêm mũi dị ứng có thể ảnh hưởng đến khả năng làm việc hoặc học hành và thường ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người mắc phải. Nhưng người bệnh có thể học cách tránh các yếu tố kích hoạt và tìm ra phương pháp điều trị phù hợp.
Vậy viêm mũi dị ứng là gì? Bệnh viêm mũi dị ứng có nguy hiểm không?, viêm mũi dị ứng có lây không? Nguyên nhân viêm mũi dị ứng là gì?
Các chất gây dị ứng đường hô hấp (lưu hành trong không khí) nguyên nhân thường gặp nhất của viêm mũi dị ứng là :
Các chất gây dị ứng trong nhà : bụi, vật nuôi trong nhà, gián, nấm mốc. Nấm mốc phát ra các bào tử nhỏ xâm nhập vào trong mũi và cả hai phế quản. Loại thường gặp nhất, mặc dù nói chung là không phổ biến trong các nguyên nhân là: Alternaria, Cladosporium, Aspergillus và Penicillium.
Các chất gây dị ứng trong không khí: phấn hoa lúa, phấn hoa cỏ (armoise) phấn hoa từ cây khác nhau giữa các khu vực địa lý Betulaceae (bạch dương, cây bulô tại khu vực phía Bắc) Oleaceae (tro hoặc ô liu) Fagaceae (cây sồi) Cupressaceae (cây bách ở phía nam). Lịch phấn hoa cũng như các trang web cung cấp thông tin về mức độ phấn hoa là trang web của RNSA (mạng lưới quốc gia về giám sát không khí) là rất hữu ích để thiết lập việc điều trị triệu chứng và xác nhận sự tương quan lâm sàng.
Các chất gây dị ứng nghề nghiệp: cao su (Sức khỏe Nghề nghiệp), thợ làm bánh (bột), thợ cắt tóc (chất persulfates), nhà sinh vật học, bác sĩ thú y (động vật) … Các chất gây dị ứng chéo như nhựa mủ cây chuối, kiwi, trái bơ là rất phổ biến đặc biệt là đối với phấn hoa Betulaceae (hạt nhân chiên như đào, táo, cerise, cà rốt, rau mùi tây, cần tây). Danh sách các chất gây dị ứng chéo là rất dài. Không có mối quan hệ chéo rõ ràng giữa các dị nguyên trong không khí và dị nguyên thức ăn . Bệnh nhân nên được hỏi bệnh về sự tồn tại của các phản ứng với thức ăn như sưng môi, vết phỏng, cảm giác kim châm hoặc phồng lưỡi hoặc cổ họng khi ăn uống có thể là nguồn gốc gây ra dị ứng chéo.
Các triệu chứng lâm sàng là hậu quả của sự giải phóng ngay lập tức hay trì hoãn các hóa chất trung gian (không hạt) của các tế bào hiện diện trong niêm mạc mũi và vòm họng.
Viêm mũi dị ứng có hai thể: chu kỳ và không có chu kỳ.
Thể bệnh có chu kỳ: thường xảy ra đột ngột về đầu mùa lạnh hay đầu mùa nóng, bệnh nhân thấy nhột cay trong mũi, hắt hơi liên tục vài chục cái, cay mắt, đỏ mắt, chảy nước mắt. Sau đó mũi chảy nước đầm đìa, nước mũi trong như nước lã. Người bệnh còn có cảm giác rát bỏng ở kết mạc, vòm họng. Bệnh nhân bị nặng đầu, mệt mỏi uể oải, sợ ánh sáng, nên thường tìm chỗ tối để nằm. Cơn dị ứng xuất hiện nhiều lần trong ngày, tối dịu đi, bệnh kéo dài trong vài ngày đến một tuần rồi tự biến mất. Hàng năm vào đúng thời kỳ đó bệnh lại tái diễn, có những bệnh nhân bị bệnh hàng chục năm. Ở một số bệnh nhân cao tuổi, do bệnh kéo dài nhiều năm, tổn thương làm cho niêm mạc mũi thoái hóa, phù nề gây ngạt mũi; các xương xoăn mũi to phình lên, xen với những polip.
Thể bệnh không có chu kỳ: hay gặp nhất, bệnh nhân thường bị sổ mũi vào lúc sáng sớm thức dậy, giảm đi trong ngày, tái phát khi gặp luồng gió, gặp lạnh, tiếp xúc với bụi. Thời kỳ đầu nước mũi trong, thời gian sau đó đặc lại thành mủ, nước mũi chảy thành từng đợt, có khi viêm loét vùng tiền đình mũi; hắt hơi hàng tràng, trường hợp nặng hắt hơi liên tục nhiều giờ trong ngày, gây mệt mỏi, giảm trí nhớ; ngạt mũi thay đổi tùy theo thời gian, thời tiết và theo mùa; do nghẹt mũi bệnh nhân phải thở bằng miệng dẫn đến viêm họng, viêm phế quản; các triệu chứng ngứa trong mũi, đau thắt ở gốc mũi, do tiết dịch ứ đọng trong vòm họng nên bệnh nhân luôn phải khạc nhổ; niêm mạc mũi phù nề, nhợt nhạt, phủ dịch nhầy loãng, hoặc mủ đặc, màu trắng hoặc vàng, xanh khi có bội nhiễm vi khuẩn; niêm mạc mũi bị thoái hóa biến thành polyp to nhẵn.
Bệnh viêm mũi dị ứng không phải là bệnh truyền nhiễm, do đó không có khả năng lây truyền từ người mắc bệnh sang người khỏe mạnh.
Dị ứng có thể ảnh hưởng đến bất cứ ai, nhưng bạn có khả năng bị viêm mũi dị ứng nếu có tiền sử dị ứng trong gia đình đã có người mắc bệnh này. Bị hen suyễn hoặc bệnh chàm da cũng có thể làm tăng nguy cơ viêm mũi dị ứng.
Một số yếu tố bên ngoài có thể kích hoạt hoặc làm xấu đi tình trạng bệnh viêm mũi di ứng, bao gồm:
Khói thuốc lá
Hóa chất
Nhiệt độ lạnh
Độ ẩm
Gió
Ô nhiễm không khí
Keo xịt tóc
Nước hoa
Bụi gỗ
Khói
Muốn phòng bệnh viêm mũi dị ứng có hiệu quả, tốt nhất là tránh các tác nhân gây bệnh, tránh hít phải khói, bụi, phấn hoa, cánh bướm, lông thú, sơn ta, xăng dầu, hơi hóa chất…
Về ăn uống, cần tránh các thức ăn có thể gây dị ứng như: nhộng tằm, cá ngừ, tôm, cua ghẹ... Đối với người cao tuổi cũng không nên chủ quan phơi trần ra gió mưa rét ướt. Đồng thời cũng không nên sống theo kiểu kiêng khem quá làm cho cơ thể yếu đuối, kém sức chịu đựng với mọi thay đổi của thời tiết. Bệnh nhân cần rèn luyện thân thể bằng việc tập thể dục thể thao vừa sức thường xuyên cũng là biện pháp phòng bệnh có hiệu quả tốt.
Việc chẩn đoán viêm mũi dị ứng dựa trên việc hỏi bệnh chính xác kết hợp với xét nghiệm da dương tính phù hợp với dữ liệu từ các test kiểm tra châm da (prick test). Vì vậy, các triệu chứng lâm sàng gợi ý nhiều là chảy nước mũi, hắt hơi, tắc mũi, ngứa mũi và màng hầu-vòm miệng cùng với mất khứu giác (trái với những thông tin nhận được, viêm mũi dị ứng không biến chứng không kèm với rối loạn khứu giác). Những triệu chứng này xảy ra tùy theo sự tiếp xúc trong với động vật hoặc tùy thuộc vào tính chu kỳ gợi ý hằng năm của phấn hoa trong trường hợp viêm mũi định kỳ. Trong trường hợp viêm mũi lâu năm, các triệu chứng này thường giảm nhẹ bởi thuốc. Các triệu chứng thường kết hợp với viêm kết mạc và ho (hoặc hen) xảy ra cùng các triệu chứng đi kèm. Những yếu tố định hướng rất quan trọng: đặc điểm theo mùa, tiền căn dị ứng bản thân hoặc gia đình, kết hợp với các bệnh khác (phế quản phổi, tai, kết mạc, xoang, da), hiệu quả của thuốc chống dị ứng và / hoặc corticoide tại chỗ. Việc chẩn đoán viêm mũi dị ứng nhằm chứng tỏ một đáp ứng miễn dịch chuyên biệt qua trung gian bởi IgE phát hiện được. Các test kiểm tra chích da (châm da, lẩy da) nhạy cảm cao, dễ thực hiện và không tốn kém. Chúng có thể được thực hiện với chất chiết xuất chuẩn hóa hoặc với các chất nguyên sơ. Phương pháp này thường được sử dụng cho các bệnh dị ứng thực phẩm chéo hơn là dị ứng đường hô hấp vì thường nhạy cảm hơn so với chất chiết xuất từ thương mại. Nếu cần thiết để khẳng định chẩn đoán, việc nghiên cứu các IgE chuyên biệt trong huyết thanh là chính xác, tuy nhiên giá thành của nó giới hạn việc sử dụng của nó.
Người bệnh có thể điều trị viêm mũi dị ứng theo nhiều cách khác nhau, bao gồm thuốc, cũng như các biện pháp khắc phục tại nhà và có thể là các loại thuốc thay thế. Do đó người bệnh cần được khám và tư vấn của bác sĩ của bạn trước khi thử bất kỳ biện pháp điều trị mới cho viêm mũi dị ứng.
Người bệnh có thể dùng thuốc kháng histamin để điều trị dị ứng dựa trên cơ chế hoạt động bằng cách ngăn cơ thể tạo ra histamin. Người bệnh cần được bác sĩ tư vấn trước khi bắt đầu một loại thuốc mới.
Người bệnh có thể sử dụng thuốc chống xung huyết (decongestant)trong một thời gian ngắn, thường không quá ba ngày, để giảm nghẹt mũi và áp lực xoang. Sử dụng thuốc này trong một thời gian dài hơn có thể gây ra hiệu ứng tái lại (rebound effects), có nghĩa là một khi ngưng thuốc các triệu chứng của bệnh sẽ thực sự trở nên tồi tệ hơn. Thuốc thông mũi OTC phổ biến bao gồm:
Oxymetazoline (thuốc xịt mũi Afrin)
Pseudoephedrine (Sudafed)
Phenylephrine (Sudafed PE)
Cetirizine với pseudoephedrine (Zyrtec-D)
Nếu người bệnh có nhịp tim bất thường, bệnh tim, tiền sử đột quỵ, lo âu, rối loạn giấc ngủ, huyết áp cao hoặc các vấn đề về bàng quang, hãy nói chuyện với bác sĩ trước khi sử dụng thuốc chống xung huyết.
Thuốc nhỏ mắt và thuốc xịt mũi có thể giúp giảm ngứa và các triệu chứng liên quan đến dị ứng khác trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, tùy thuộc vào sản phẩm, người bệnh có thể cần tránh sử dụng lâu dài.
Giống như thuốc chống xung huyết, lạm dụng một số loại thuốc nhỏ mắt và thuốc nhỏ mũi cũng có thể gây ra hiệu ứng tái lại.
Corticosteroid có thể giúp giảm viêm và đáp ứng miễn dịch nhưng không gây ra hiệu ứng tái lại. Thuốc xịt mũi steroid thường được khuyên dùng lâu dài, hữu ích để kiểm soát các triệu chứng dị ứng.
Khám với bác sĩ trước khi bắt đầu chế độ điều trị dị ứng để đảm bảo người bệnh đang dùng thuốc tốt nhất cho các triệu chứng của bản thân. Bác sĩ cũng có thể giúp người bệnh xác định sản phẩm nào được sản xuất để sử dụng ngắn hạn và sản phẩm nào được phép sử dụng lâu dài.
Tránh phấn hoa và nấm mốc, bụi, bọ ve, cứt gián, lông chó, mèo, xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, mỹ phẩm, chất tẩy rửa...
Nếu đã dùng các biện pháp trên thất bại thì người ta mới xem xét đến phương pháp thứ ba là thay đổi miễn dịch (miễn dịch liệu pháp - immunotherapy). Đây là phương pháp cho bệnh nhân hấp thụ với liều tăng dần dị nguyên nhằm đạt được giảm mẫn cảm, tức là giảm các triệu chứng khi phơi nhiễm tự nhiên trở lại với chính dị nguyên đó. Liệu pháp miễn dịch là phương pháp duy nhất điều trị tận gốc căn nguyên gây dị ứng. Tuy nhiên, dù viêm mũi dị ứng thường được điều trị nội khoa, nhưng trong một số trường hợp các bác sĩ vẫn chỉ định phẫu thuật để điều trị. Đó là khi cần giải quyết bệnh tích ở những bệnh nhân viêm mũi dị ứng tiến triển tạo nhiều polyp, hoặc niêm mạc cuốn mũi thoái hóa quá mức gây nghẹt mũi nhiều không thể phục hồi dù đã uống thuốc tích cực.
Đối với người cao tuổi, nên tránh dùng các thuốc kháng histamin, như promethazine, chlorpheniramine vì tác dụng kém chọn lọc nên có thể gây buồn ngủ, lo lắng, lú lẫn, bí tiểu, táo bón, tụt huyết áp… Những trường hợp chỉ có bệnh viêm mũi đơn thuần không đi kèm với viêm kết mạc, nên dùng các thuốc kháng histamin xịt mũi như azelastine vì có tác dụng nhanh và ít tác dụng phụ.